Thời kì thân chính (1651–1661) Thuận_Trị

Thanh trừng phe cánh Đa Nhĩ Cổn

Chân dung Hoàng đế Thuận Trị lúc trưởng thành

Cái chết bất ngờ của Đa Nhĩ Cổn trong một chuyến đi săn vào ngày 31 tháng 12 năm 1650 đã khơi mào cho một cuộc tranh chấp gây gắt giữa các phe phái trong triều và mở đường cho những cải cách chính trị sâu sắc về sau.[93] Bởi vì thế lực của những người ủng hộ Đa Nhĩ Cổn trong triều vẫn còn rất nhiều, Thuận Trị buộc phải tiến hành tang lễ ông ta theo nghi thức trang trọng nhất, và sau đó còn truy miếu hiệu là Thành Tông, thụy hiệu là Nghĩa Hoàng đế.[94] Trong những ngày đầu tháng 1 năm 1651, nhiều đại thần Lưỡng Bạch kỳ, đứng đầu là một người ủng hộ cũ của Đa Nhĩ Cổn, Ngô Bái (吴拜), tiến hành bắt giữ bào huynh của Đa Nhĩ CổnA Tế Cách vì lo ngại ông ta sẽ dùng vũ lực đoạt chức Nhiếp chính; Ngô Bái và các cộng sự sau đó tự xưng là các chức quan đứng đầu trong các bộ, chuẩn bị đoạt lấy đại quyền.[95]

Trong khi đó, Trịnh Thân vương Tế Nhĩ Cáp Lãng, người bị phế trừ quyền Nhiếp chính năm 1647, tập hợp các quan chức Bát kỳ bất mãn với sự chuyên quyền của Đa Nhĩ Cổn.[96] Để củng cố sự ủng hộ của dành cho Hoàng đế ở Lưỡng Hoàng kỳ (vốn trực tiếp thuộc quyền quản lý của Đại hãn (Hoàng đế) từ thời Hoàng Thái Cực) và khống chế những người trong Chính Bạch kỳ của Đa Nhĩ Cổn, Tế Nhĩ Cáp Lãng gọi đó là "Thượng Tam kỳ" (上三旗, phiên âm Mãn Châu: dergi ilan gūsa), trực tiếp nằm dưới quyền điều hành của Hoàng đế.[97] Ngao BáiTô Khắc Tát Cáp, những người về sau làm Nhiếp chính cho Khang Hi Đế từ 1661, là những người tích cực ủng hộ Tế Nhĩ Cáp Lãng, và được ông bổ nhiệm họ vào Nghị chính Vương đại thần để tưởng thưởng.[96]

Ngày 1 tháng 2, Tế Nhĩ Cáp Lãng tuyên bố Thuận Trị Đế, năm đó 14 tuổi, trực tiếp thân chính.[96] Chế độ Nhiếp chính bị bãi bỏ. Tế Nhĩ Cáp Lãng đi nước cờ tiếp theo. Cuối tháng 2 đầu tháng 3 năm 1651, ông hạch tội Đa Nhĩ Cổn lấn lướt Hoàng quyền: Đa Nhĩ Cổn bị kết tội và tước đi toàn bộ danh hiệu đã được truy tặng.[96] Tế Nhĩ Cáp Lãng tiếp tục thanh trừng những người ủng hộ Đa Nhĩ Cổn và giao các chức vụ quan trọng cho các thành viên trong Thượng Tam kỳ, kết quả đến năm 1652 toàn bộ phe cánh của Đa Nhĩ Cổn đã bị giết hoặc bị loại khỏi triều đình.[98]

Đảng tranh và cuộc chiến chống tham nhũng

Trang phục dành cho quan viên là một trong những vấn đề tranh luận nổi cộm dười thời Thuận Trị. Đại thần Trần Danh Hạ (陳名夏) bị xử tử năm 1654 vì có ý khôi phục lại lối ăn mặc của triều Minh. Một ví dụ cho điều này được thể hiện trong bức tranh họa chân dung của đại thần nhà Minh Nghê Nguyên Lộ (倪元璐, 1593-1644) vẽ vào thế kỉ 17.

Ngày 7 tháng 4 năm 1651, chỉ hai tháng sau khi thân chính, Thuận Trị ban chiếu nói rõ ý định của ông là thanh trừng tất cả những quan chức tham nhũng.[99] Lệnh này ngay sau đó đã khơi mào cho những tranh chấp mới và khiến ông phải ân hận cho đến tận lúc chết.[100] Một trong những hành động đầu tiên của ông là cách chức Đại học sĩ Phùng Thuyên (馮銓; 1595–1672), một viên quan xuất thân từ miền bắc bị kết tội năm 1645 nhưng rồi được tha và trọng dụng trở lại theo lệnh của Nhiếp chính vương Đa Nhĩ Cổn.[101] Thuận Trị thay Phùng Thuyên bằng Trần Danh Hạ (陳名夏, 1601– 1654), một học giả người miền nam có mối quan hệ khá tốt trong giới văn sĩ Giang Nam.[102] Mặc dù cuối năm 1651, Trần Danh Hạn bị cách chức nhưng sớm được phục chức năm 1653 và trở thành một cố vấn thân tín của Hoàng đế.[103] Ông còn được giao quyền soạn thảo chiếu lệnh cho Hoàng đế như một Đại học sĩ dưới triều Minh.[104] Rồi đến năm 1653, Thuận Trị lại cho gọi Phùng Thuyên về triều để làm cân bắng ảnh hưởng giữa quan viên hai miền nam bắc, nhưng hành động này không những không như mong muốn của Thuận Trị, mà còn làm tăng mâu thuẫn trong nội bộ.[105] Trong nhiều cuộc tranh cãi tại triều năm 1653 và 1654, những quan chức miền nam đã hình thành một phe phái đối lập với quan chức người miền bắc và Mãn Châu.[106] Tháng 4 năm 1654, khi Trần Danh Hạ bàn với một viên quan Hoa Bắc là Ninh Hoàn Ngã (寧完我; chết năm 1665) về việc khôi phục lại lối trang phục như thời nhà Minh, Ninh lập tức tố cáo Trần trước mặt Hoàng đế về nhiều tội, như tham nhũng, lạm quyền, kết bè kết đảng...[107] Kết quả, Trần Danh Hạ bị xử giảo vào ngày 27 tháng 4 năm 1654.[108]

Tháng 11 năm 1757, một vụ bê bối khoa cử diễn ra ở trường thi Thuận Thiên phủ (Bắc Kinh ngày nay).[109] Tám sĩ tử Giang Nam có quan hệ bà con với các quan viên ở Bắc Kinh đã hối lộ cho các giám thị để mong đạt kết quả cao trong kì đại khoa.[110] Bảy viên quan chấm thi bị kết tội ăn hối lộ và bị xử tử, và hàng trăm người khác bị lưu đày và tịch biên gia sản.[111] Những vụ bê bối như thế này, trước đó đã lan rộng ở Giang Nam, đến khi người ta điều tra ra những hành vi hối lộ và gian lận của các quan chức trong bộ máy chính quyền, và nhiều quan chức miền bắc chỉ trích giới văn sĩ Giang Nam đã làm xói mòn đạo học.[112]

Chính sách với người Hán

Trong thời gian trị vì ngắn ngủi của mình, Thuận Trị hoàng đế khuyến khích người Hán tham gia vào các công việc của triều đình và khôi phục lại nhiều Hán chế đã bị bác bỏ trong thời kì nhiếp chính của Đa Nhĩ Cổn. Ông hăng hái bàn luận về lịch sử, kinh điển và chính trị với các học giả lớn như Trần Danh Hạ (xem phần trước) và trọng dụng những nhân tài mới như Vương Hi (王熙; 1628–1703), một người Hán ở miền bắc thông thạo tiếng Mãn Châu.[113] "Sáu sắc lệnh" (Lục dụ) mà Thuận Trị hoàng đế ban ra năm 1652 là tiền đề cho "Thánh dụ" (1670) của Khang Hy Đế: "Chính thống Nho gia tư tưởng đích ngạnh khái" tức là khuyến dụ trăm họ giữ gìn đạo hiếu và tuân thủ pháp luật.[114] Trong một động thái khác để lấy lòng người Hán, hoàng đế cho lập lại Hàn Lâm ViệnNội các năm 1658. Hai thể chế mô phỏng theo cơ cấu nhà Minh này đã phần nào làm xói mòn quyền lực của giới quý tộc Mãn Châu và có thể sẽ dẫn đến việc đảng tranh giữa các phe phái như cuối thời Minh.[115]

Để hạn bớt đi quyền lực của Phủ Nội vụ và giới quý tộc Mãn Châu, vào tháng 7 năm 1653, Thuận Trị thành lập 13 nha môn, tuy trên danh nghĩa do người Mãn đứng đầu, nhưng thực chất là do các thái giám người Hán và Bao y người Mãn khống chế, which were supervised by Manchus, but manned by Chinese eunuchs rather than Manchu bondservants.[116] Các hoạn quan bị kìm kẹp chặt chẽ dưới thời chấp chính của Đa Nhĩ Cổn, nhưng Hoàng đế lại dùng họ để ngăn chặn những trung tâm quyền lực khác như Hoàng Thái hậu mẹ của ông và cựu Nhiếp chính Tế Nhĩ Cáp Lãng.[117] Cuối những năm 1650, quyền lực của thái giám trở nên lớn mạnh: họ xử lý các vấn đề chính trị và tài chính, đưa ra lời khuyên cho vua về các vấn đề chính sự, và thậm chí ban hành cả các chiếu chỉ.[118] Bởi vì hoạn q làm ngăn cách hoàng đế với bộ máy quan liêu, nên các đại thần Mãn Hán lo sợ vấn nạn hoạn quan lộng quyền gây hậu quả lớn như đã từng xảy ra với triều Minh sẽ lập lại.[119] Mặc dù Hoàng đế cũng có những nỗ lực nhằm áp đặt các biện pháp quản lý các hoạt động của hoạn quan, thái giám cận thần của Thuận Trị là Ngô Lương Phụ (吳良輔; chết năm 1661), người từng giúp ông thanh trừng phe cánh của Đa Nhĩ Cổn đầu những năm 1650, đã bị bắt vì tội hối lộ năm 1658.[120] Nhưng sau đó Ngô chỉ bị khiển trách, cho thấy hoàng đế đã không biết cách trấn an phe quý tộc Mãn Châu, khiến họ nhận ra rằng việc các thái giám trỗi dậy là uy hiếp tới địa vị của họ.[121] Mười ba nha môn bị bãi bỏ (và Ngô Lương Phụ bị xử tử) bởi Ngao Bái và các Phụ chính đại thần vào tháng 3 năm 1661, không lâu sau khi Thuận Trị Đế băng hà.[122]

Biên giới và ngoại giao

Bức họa năm 1656 của người Hà Lan mô tả các "Sứ thần Moghul" (sứ giả do hoàng thân Mogul, đang cai trị đất Thổ Lỗ Phiên đến Bắc Kinh dưới thời Thuận Trị Hoàng đế.[123]

Năm 1646, quân Thanh dưới sự chỉ huy của Bác Lạc chiếm được Phúc Châu, và gặp sứ giả của các nước Lưu Cầu, An Nam, và người Tây Ban Nha đến từ thuộc địa Manila.[124] Những sứ giả này đến để triều cống cho Hoàng đế Nam Minh. Sau đó triều đình nhà Thanh trao trả họ về nước và gửi kèm theo đó các bức thư yêu cầu vua của các nước trên phải thần phục Đại Thanh.[124] Sau đó các nước bắt đầu gửi sứ thần đến bái kiến và triều cống: Lưu Cầu năm 1649, Xiêm La năm 1652, và An Nam năm 1661, sau khi những tàn dư cuối cùng của triều Minh bị đuổi khỏi Vân Nam giáp giới nước An Nam.[124]

Cũng năm 1646, Sultan Abu al-Muhammad Haiji Khan, hoàng thân nhà Mogul đang cai trị Thổ Lỗ Phiên, cử sứ giả đến yêu cầu nối lại giao thương với Trung Quốc vốn bị trì trệ vì chiến loạn cuối thời nhà Minh.[125] Tuy bức thư dùng lời lẽ không nhún nhường, nhưng nhà Thanh đã đồng ý nhận nó, và hai bên tiến hành đàm phán ở Bắc Kinh và Lan Châu (Cam Túc).[126] Nhưng thỏa thuận này bị phá vỡ bởi cuộc nổi loạn của người Hồi giáo ở miền tây bắc Trung Quốc năm 1646 (xem đoạn cuối của phần "Hoàn tất chinh phục Trung Nguyên" bên trên). Việc cống nạp và buôn bán với Cáp MậtThổ Lỗ Phiên, vốn bị gián đoạn bởi cuộc nổi dậy này được nối lại vào năm 1656.[127] Tuy nhiên, năm 1655 Thanh đình tuyên bố rằng người Thổ Lỗ Phiên chỉ phải triều cống năm năm một lần.[128]

Bạch tháp tọa lạc tại Công viên Bắc HảiBắc Kinh, được xây dựng bởi Hoàng đế Thuận Trị nhằm tôn vinh Phật giáo Tây Tạng.

Năm 1651, vị Hoàng đế trẻ mời Lạt ma thứ 5, lãnh đạo Phái Hoàng mạo của Phật giáo Tây Tạng, người mà, với sự giúp đỡ quân sự từ Khoshot Gushri Khan của Mông Cổ, vừa mới thống nhất tôn giáo và các luật thế tục ở Tây Tạng.[129] Thanh hoàng vốn thường xuyên tiếp xúc Phật giáo Tây Tạng ít nhất từ năm 1621 dưới thời Nỗ Nhĩ Cáp Xích, nhưng cuộc gặp gỡ này cũng có những lý do chánh trị của nó.[130] Cụ thể, Tây Tạng là một thế lực to ở phía tây đế quốc Thanh, và tiếng nói của Đại Lạt ma rất có ảnh hưởng tới các bộ lạc Mông Cổ, nhiều người trong số các lãnh chúa Mông chưa chịu quy phục Thanh.[131] Để chuẩn bị chào đón vị "Phật sống," Thuận Trị hoàng đế ra lệnh xây dựng Bạch Tháp ở đảo Quỳnh Hoa phía tây bắc Tử Cấm Thành, nơi mà trước đó là cung điện cũ của Đại Hãn Hốt Tất Liệt.[132] Sau nhiều lời mời cùng các cuộc trao đổi sứ thần, cuối cùng phía Tây Tạng đã đồng ý, và Đạt Lạt mà đến Bắc Kinh vào tháng 1 năm 1653.[133] Đại Lạt ma sau đó có chuyến thăm đến Cung điện PotalaLhasa, nơi mà ông bắt đầu xây dựng năm 1645.[134]

Trong khi đó, ở phía bắc Mãn Châu, các nhà thám hiểm Vassili Poyarkov (16431646) và Yerofei Khabarov (16491653) bắt đầu chuyến thám hiểu thung lũng sông Amur theo lệnh của Nga vương. Năm 1653 Khabarov được triệu hồi trở về Moskva và thay vào vị trí đó là Onufriy Stepanov, người nắm quyền chỉ huy lực lượng Cossack của Khabarov.[135] Stepanov đi về phía nam đến lưu vực sông Sungari, ở đó ông đòi những người dân bản địa như người DaurDurchers phải dâng nộp "yasak" (lông thú), nhưng những nhóm này từ chối vì họ chỉ cống nạp cho hoàng đế Thuận Trị ("Shamshakan" theo các nguồn tiếng Nga).[136] Năm 1654 Stepanov đánh bại một lực lượng nhỏ người Mãn Châu được cử đến từ Ningguta để thăm dò tình hình phía Nga.[135] Năm 1655, một tướng lĩnh khác của nhà Thanh, Minh An Đạt Lễ (chết 1669), đánh bại lực lượng của Stepanovtaij pháo đài Kumarsk trước bờ sông Amur, nhưng những điều này không khiến người Nga lùi bước.[137] Năm 1658, tuy nhiên, tướng người Mãn là Sa Nhĩ Hổ Đạt (15991659) tấn công Stepanov bằng hạm đội 40 chiến thuyền (hoặc nhiều hơn), toàn bộ quân Nga bị bắt hoặc giết.[135] Chiến thắng này giúp người Thanh đẩy lùi quân giặc khỏi thung lũng Amur thuộc Cossack band, nhưng Xung đột biên giới Nga-Thanh vẫn tiếp tục cho đến khi kí kết Hiệp ước Nerchinsk phân định biên giới Nga và Thanh dưới thời Khang Hy hoàng đế.[135]

Tiếp tục chiến dịch tiêu diệt Nam Minh

Hành trình tháo chạy của Hoàng đế Vĩnh Lịch-vua cuối triều Nam Minh từ 1647 đến 1661. Ranh giới tỉnh và quốc gia trên bản đồ trùng với ranh giới ngày nay của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

Mặc dù quân Thanh dưới thời Đa Nhĩ Cổn đã đẩy chính quyền Nam Minh tháo chạy xa về cực nam Trung Quốc, nhưng lực lượng trung thành với nhà Minh vẫn còn âm ỉ hoạt động. Đầu tháng 8 năm 1652, Lý Định Quốc, người từng phục vụ dưới quyền tên cướp Trương Hiến Trung (chết 1647) ở Tứ Xuyên đã về hàng Quế vương của Nam Minh, đoạt lại Quế Lâm (tỉnh Quảng Tây) từ tay nhà Thanh.[138] Trong chưa tới một tháng, hầu hết các viên tướng của nhà ThanhQuảng Tây trở về với nhà Minh.[139] Mặc dù giành được một số thắng lợi quân sự ở Hồ QuảngQuảng Đông trong vòng hai năm tiếp theo, Lý lại không thể chiếm lại được các trọng trấn.[138] Năm 1653, Thanh đình phái Hồng Thừa Trù đến phụ trách việc tái chiếm miền tây nam.[140] Hồng Thừa Trù đóng quân tại Trường Sa (nay thuộc tỉnh Hồ Nam), và dần xây dựng lực lượng; chỉ đến cuối năm 1658 quân đội Thanh đã được trang bị đầy đủ và sẵn sàng tái chiếm Quý ChâuVân Nam.[140] Cuối tháng 1 năm 1659, quân Thanh do Đạc Ni lãnh đạo chiếm kinh thành Vân Nam, buộc Quế vương (Vĩnh Lịch) chạy trốn đến biên giới Miến Điện, khi đó nằm quyền cai trị của Vua Pindale Min của Vương triều Toungoo.[140] Vị vua cuối cùng của Nam Minh ở đây cho đến năm 1662, khi ông bị bắt và hành quyết bởi Ngô Tam Quế, tướng cũ của nhà Minh đã về hàng người Mãn Châu vào tháng 4 năm 1644 khi Đa Nhĩ Cổn khởi động cuộc chinh phạt Trung Nguyên.[141]

Trịnh Thành Công ("Quốc Tính gia"), người đã xưng thần với Đường vương năm 1646 và sau đó là Quế vương năm 1655, tiếp tục nâng cờ nghĩa khôi phục Minh đình.[142] Năm 1659, khi Thuận Trị hoàng đế chuẩn bị tổ chức kì đại khoa để tôn vinh triều đại của ông và những thành tích quân sự ở miền tây nam, thì Quốc tính gia cùng quân đội được trang bị kĩ lưỡng đi thuyền đến lưu vực sông Dương Tử đang thuộc quyền kiểm soát của Thanh, và sau đó đe dọa đến Nam Kinh.[143] Khi hoàng đế nghe tin về cuộc tấn công bất ngờ này, ông được cho là đã dùng kiếm chém vào ngai vàng trong sự tức giận.[143] Nhưng cuộc bao vây Nam Kinh bị đánh bại và Trịnh Thành Công phải rút lui về vùng duyên hải phía đông nam Phúc Kiến.[144] Bị áp lực bởi thủy quân Thanh, Quốc Tính gia tháo chạy về Đài Loan vào tháng 4 năm 1661 nhưng qua đời vào cùng năm.[145] Hậu duệ của ông vẫn tiếp tục chống Thanh đến năm 1683, năm mà Khang Hy hoàng đế chinh phục thành công đảo Đài Loan.[146]

Tính cách và quan hệ cá nhân

Johann Adam Schall von Bell, một nhà truyền giáo [dòng Tên] được Thuận Trị Hoàng đế gọi là mafa ("ông" trong tiếng Mãn).

Sau khi Phúc Lâm lên thân chinh năm 1651, mẫu thân ông, Thái hậu Hiếu Trang xếp đặt hôn sự cho ông với cháu gái của bà, nhưng vị vua trẻ nhanh chóng phế bỏ vị hoàng hậu này năm 1653.[147] Năm sau Hiếu Trang lại sắp xếp một hôn sự khác cho hoàng đế với nhà mẹ của mình là tộc Khoa Nhĩ Thẩm, Mông Cổ.[147] Dù Phúc Lâm cũng chẳng ưa gì hoàng hậu thứ hai (Hiếu Huệ Chương hoàng hậu), nhưng ông dường như không được phép phế bỏ bà ta. Hoàng hậu không sinh được bất kì đứa con nào.[148] Từ năm 1656, Thuận Trị hoàng đế sủng ái một vị quý phi họ Đổng Ngạc. Có thuyết cho rằng bà là giáo đồ dòng Tên, và cũng có thuyết cho rằng bà từng là vợ của một quý tộc Mãn Châu.[149] Đổng Ngạc phi hạ sinh cho Thuận Trị một người con trai (Tứ A ca) vào tháng 11 năm 1657. Hoàng đế dự định tấn phong Tứ A ca làm Trữ quân, nhưng vị hoàng tử này chết yểu vào đầu năm 1658 khi vẫn chưa được đặt tên.[150]

Thuận Trị hoàng đế là một người cởi mở, ông lắng nghe lời tư vấn từ Johann Adam Schall von Bell, một nhà truyền giáo dòng Tên từ Cologne thuộc Đức, Thánh chế La Mã, người đã giảng giải cho ông các vấn đề về thiên văn học, kĩ thuật liên quan đến tôn giáochính phủ.[151] Cuối năm 1644, Đa Nhĩ Cổn giao cho Schall chuẩn bị chế ra một loại lịch mới vì những dự báo của ông về nhật thực chính xác hơn nhiều so với các nhà âm dương Trung Quốc.[152] Sau Đa Nhĩ Cổn chết, Schall vẫn giữ mối quan hệ tốt đẹp với hoàng đế trẻ, và hoàng đế gọi ông là "ông" (mafa tiếng Mãn Châu).[153] Khi ở đỉnh cao quyền lực giai đoạn 1656 đến 1657, Schall báo cáo rằng Thuận Trị hoàng đế thường đến nhà của ông và đàm luận với ông đến tận khuya.[151] Ông được hoàng đế ban lệnh miễn tội, được ban đất để xây một nhà thờBắc Kinh, và được quyền nhận con nuôi (vì Phúc Lâm lo lắng cho Schall không có người thừa kế), nhưng hy vọng của dòng Tên về việc cải đạo cho quân vương nhà Thanh sang đạo Thiên Chúa bị thất bại khi Thuận Trị hoàng đế trở thành một Phật tử mộ đạo từ năm 1657.[154]

Hoàng đế tỏ ra là một nhà lãnh đạo tốt, quản lý thành công các vấn đề nhà nước, và ông đánh giá cao các nghệ thuật truyền thống của người Hán như thư phápkịch.[155] Một trong số những tác phẩm mà ông yêu chuộng là Vạn sầu khúc của Quy Trang (16131673), vốn là bạn thân của những học giả chống Thanh như Cố Viêm VũVạn Thọ Kỳ (16031652).[156] "Khá nhiệt tình và đánh giá cao tình yêu," ông cũng có thể đọc thuộc lòng những đoạn dài của những tác phẩm Văn học lãng mạn phương Tây.[155]